Khám phá thơ về 24 tiết khí và ý nghĩa văn hóa sâu sắc của chúng trong việc phản ánh nhịp điệu thiên nhiên, vẻ đẹp bốn mùa qua thi ca và văn hóa Á Đông.
Trong văn hóa Á Đông, hệ thống 24 tiết khí là một phương pháp tính lịch pháp quan trọng. Bài viết này sẽ tuyển chọn những vần thơ về 24 tiết khí tiêu biểu, đồng thời phân tích vẻ đẹp của chúng trong việc phản ánh chu kỳ sống, vẻ đẹp bốn mùa trong thi ca và văn hóa truyền thống.
1Tổng quan về 24 tiết khí
Tiết khí là 24 điểm đặc biệt trên quỹ đạo của Trái Đất quay quanh Mặt Trời, tương ứng với 24 giai đoạn trong một năm, mỗi giai đoạn kéo dài khoảng 15 đến 16 ngày.

Đây là một hệ thống lịch pháp cổ xưa, dùng để dự báo thời tiết, khí hậu, và quy định thời vụ nông nghiệp, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các nền văn hóa lúa nước.
Tiết khí | Thời điểm | Ý nghĩa |
Khoảng 4 hoặc 5/2 | Mở đầu năm mới, cây cối đâm chồi, báo hiệu mùa Xuân bắt đầu. | |
Vũ Thủy | Khoảng 19 hoặc 20/2 | Bắt đầu mùa mưa, gieo trồng thuận lợi, độ ẩm tăng dần. |
Kinh Trập | Khoảng 5 hoặc 6/3 | Côn trùng thức giấc, khởi động mùa sinh sôi, nhiệt độ ấm lên. |
Xuân Phân | Khoảng 20 hoặc 21/3 | Ngày và đêm dài bằng nhau, đánh dấu giữa mùa Xuân. |
Khoảng 4 hoặc 5/4 | Trời quang mây tạnh, là dịp tảo mộ, tiết trời trong sáng. | |
Cốc Vũ | Khoảng 20 hoặc 21/4 | Mưa rào đến, rất cần thiết cho sự phát triển của cây ngũ cốc. |
Khoảng 5 hoặc 6/5 | Báo hiệu mùa Hạ bắt đầu, cây cối phát triển mạnh mẽ. | |
Tiểu Mãn | Khoảng 21 hoặc 22/5 | Các loại hạt bắt đầu chín nhưng chưa đầy đủ. |
Khoảng 5 hoặc 6/6 | Thích hợp gieo trồng các loại hạt có vỏ, cần thu hoạch nhanh. | |
Hạ Chí | Khoảng 21 hoặc 22/6 | Ngày dài nhất, đêm ngắn nhất trong năm, đánh dấu giữa mùa Hạ. |
Khoảng 7 hoặc 8/7 | Bắt đầu nóng nhẹ, nhiệt độ tăng dần. | |
Khoảng 23 hoặc 24/7 | Thời kỳ nóng nhất trong năm, nhiệt độ cao. | |
Khoảng 7 hoặc 8/8 | Báo hiệu mùa Thu bắt đầu, thời tiết dần mát mẻ. | |
Xử Thử | Khoảng 23 hoặc 24/8 | Kết thúc thời kỳ nóng, bắt đầu có mưa rào. |
Khoảng 7 hoặc 8/9 | Sương bắt đầu xuất hiện, trời se lạnh vào buổi sáng. | |
Khoảng 23 hoặc 24/9 | Ngày và đêm dài bằng nhau, đánh dấu giữa mùa Thu. | |
Hàn Lộ | Khoảng 8 hoặc 9/10 | Sương lạnh hơn, không khí lạnh rõ rệt. |
Sương Giáng | Khoảng 23 hoặc 24/10 | Sương bắt đầu kết thành sương muối, thời tiết lạnh. |
Khoảng 7 hoặc 8/11 | Báo hiệu mùa Đông bắt đầu, mọi vật chuẩn bị nghỉ ngơi. | |
Tiểu Tuyết | Khoảng 22 hoặc 23/11 | Bắt đầu có tuyết rơi nhẹ, thời tiết lạnh hơn. |
Đại Tuyết | Khoảng 7 hoặc 8/12 | Tuyết rơi dày, thời tiết rất lạnh. |
Khoảng 21 hoặc 22/12 | Đêm dài nhất, ngày ngắn nhất trong năm, đánh dấu giữa mùa Đông. | |
Tiểu Hàn | Khoảng 5 hoặc 6/1 | Bắt đầu lạnh hơn, chuẩn bị cho thời kỳ rét nhất. |
Khoảng 20 hoặc 21/1 | Thời kỳ lạnh và rét nhất trong năm. |
2Tuyển tập thơ về 24 tiết khí
Thơ về 24 tiết khí, đặc biệt là tập thơ nổi tiếng của nhà thơ đời Đường Nguyên Chẩn, đã ghi lại một cách tinh tế sự chuyển mình của vũ trụ qua từng nửa tháng.
Thơ về tiết khí mùa Xuân
Mùa Xuân là mùa của hy vọng, sức sống tràn trề, được phản ánh qua những vần thơ:
- Lập Xuân (立春):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Xuân Đông di luật lữ,
Thiên địa hoán tinh sương.
Băng phán du ngư dược,
Hoà phong đãi liễu phương.
Tảo mai nghênh vũ thủy,
Tàn tuyết khiếp triêu dương.
Vạn vật hàm tân ý,
Đồng hoan thánh nhật trường.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Đông xuân âm giai chuyển,
Đất trời năm mới sang.
Băng tan đàn cá lượn,
Liễu tơ bay gió hiền.
Mai hé mong mưa nhuận,
Tuyết tàn ghê nắng lên.
Khắp nơi ngời xuân ý,
Vui chung ngày thánh minh.
- Vũ Thủy (雨水):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Vũ thủy tẩy xuân dung,
Bình điền dĩ kiến long.
Tế ngư doanh phố tự,
Quy nhạn quá sơn phong.
Vân sắc khinh hoàn trọng,
Phong quang đạm hựu nùng.
Hướng xuân nhập nhị nguyệt,
Hoa sắc ảnh trùng trùng.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Gương xuân mưa tắm gội,
Rồng thiêng hiện ngoài đồng.
Cá cúng quanh bờ nước,
Nhạn về qua đầu non.
Mây thoắt cơn sáng tối,
Đậm nhạt cảnh liền thay.
Sắp sang đến tháng Hai,
Điệp trùng hoa nở rộ.

- Kinh Trập (驚蟄):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Dương khí sơ kinh trập,
Thiều quang đại địa chu.
Đào hoa khai Thục cẩm,
Ưng lão hoá xuân cưu.
Thời hậu tranh thôi bách,
Manh nha hỗ củ tu.
Nhân gian vụ sinh sự,
Canh chủng mãn điền trù.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Kinh trập ấm dương khí,
Đất đai ánh xuân hoà.
Đào tươi như gấm Thục,
Chim cưu vốn ưng già.
Thời tiết như giục giã,
Mầm non vượt trổ ra.
Nhà nông vào vụ mới,
Cày cấy khắp đồng xa.
- Xuân Phân (春分):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Nhị khí mạc giao tranh,
Xuân phân vũ xứ hành.
Vũ lai khan điện ảnh,
Vân quá thính lôi thanh.
Sơn sắc liên thiên bích,
Lâm hoa hướng nhật minh.
Lương gian huyền điểu ngữ,
Dục tự giải nhân tình.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Ấm lạnh thôi tranh thắng,
Xuân phân mưa khắp miền.
Dưới mưa xem chớp nháng,
Mây mù nghe sấm vang.
Núi xanh liền trời biếc,
Hoa nắng trải trên ngàn.
Xà ngang đàn chim én,
Những hiểu tình thế gian.
- Thanh Minh (清明):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Thanh minh lai hướng vãn,
Sơn lục chính quang hoa.
Dương liễu tiên phi nhứ,
Ngô đồng tục phóng hoa.
Như thanh tri hoá thử,
Hồng ảnh chỉ thiên nhai.
Dĩ thức phong vân ý,
Ninh sầu vũ cốc xa.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Thanh minh khi chiều xuống,
Lấp lánh dòng suối trong.
Hoa liễu tuôn mờ xoá,
Ngô đồng phô trắng ngần.
Chuột hoá ra chim cút,
Cầu vồng ngỏ đường mây.
Đã tỏ lòng trời đất,
Còn lo chi mưa chầy?

- Cốc Vũ (谷雨):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Cốc vũ xuân quang hiểu,
Sơn xuyên đại sắc thanh.
Diệp gian minh đới thắng,
Trạch thủy trưởng phù bình.
Noãn ốc sinh tàm nghĩ,
Huyên phong dẫn mạch đình.
Minh cưu đồ phất vũ,
Tín hĩ bất kham thinh.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Cốc vũ trong ngày rạng,
Vóc ngọc xanh mơ màng.
Đầu rìu kêu tán rậm,
Sóng sông trẩy lục bình.
Buồng ấm tằm mới nở,
Lúa tốt đùa gió nam.
Chải lông chim ngói lẻ,
Tiếng kêu nghe không đành.
Thơ về tiết khí mùa Hạ
Mùa Hạ là thời điểm vạn vật trưởng thành, nhiệt độ tăng cao, được thể hiện qua nét thơ mạnh mẽ:
- Lập Hạ (立夏):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Dục tri xuân dữ hạ,
Trọng Lữ khải Chu Minh.
Khưu dẫn thuỳ giáo xuất,
Vương cô tự hợp sinh.
Liêm tàm trình kiển dạng,
Lâm điểu bộ sồ thanh.
Tiệm giác vân phong hảo,
Từ từ đới vũ hành.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Muốn định phân xuân hạ,
Tháng Tư chính sang hè.
Ai gọi giun đất dậy,
Dưa tự mình leo dây.
Trên nong, tằm ủ kén,
Chim non rộn bón mồi.
Mây núi trông đẹp thế,
Đâu ngờ làm mưa rơi.
- Tiểu Mãn (小滿):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Tiểu mãn khí toàn thì,
Như hà mĩ thảo suy.
Điền gia tư thử tắc,
Phương bá vấn tàm ti.
Hạnh mạch tu liêm sám,
Bằng cừ thụ cức li.
Hướng lai khan khổ thái,
Độc tú dã hà vi.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Tiểu mãn khí dương thịnh,
Cỏ mĩ hà cớ suy?
Nhà nông thăm lúa ruộng,
Quan hỏi mùa tằm tơ.
Lúa vàng lo liềm hái,
Cào rơm dựng bên rào.
Xem chỉ loài cải đắng,
Tốt tươi hơn mọi khi.

- Mang Chủng (芒種):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Mang chủng khan kim nhật,
Đường lang ứng tiết sinh.
Đồng vân cao hạ ảnh,
Yến điểu vãng lai thanh.
Lục chiểu liên hoa phóng,
Viêm phong thử vũ tình.
Tương phùng vấn tàm mạch,
Hạnh đắc xưng nhân tình.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Mang chủng mừng tiết mới,
Bọ ngựa bèn sinh sôi.
Mây bén lửa tản trôi,
Quyết nơi nơi đồng vọng.
Trong hồ sen ngào ngạt,
Mưa rào thêm hơi nồng.
Lúa dâu đầu câu chuyện,
Hỏi han cùng xóm thôn.
- Hạ Chí (夏至):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Xứ xứ văn thiền hưởng,
Tu tri ngũ nguyệt trung.
Long tiềm lục thủy huyệt,
Hoả trợ thái dương cung.
Quá vũ tần phi điện,
Hành vân lũ đới hồng.
Nhuy Tân di khứ hậu,
Nhị khí các tây đông.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Tứ phía ve kêu nhộn,
Tự nhủ lòng tháng Năm,
Hang nước rồng trốn biệt,
Nhà trời thiêu lửa hồng.
Mưa tuôn sấm sét giáng,
Mây cuốn cầu vồng giăng.
Nhuy Tân đi ngày một,
Khí âm ngày một sinh.
- Tiểu Thử (小暑):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Thúc hốt ôn phong chí,
Nhân tuần tiểu thử lai.
Trúc huyên tiên giác vũ,
Sơn ám dĩ văn lôi.
Hộ dũ thâm thanh ái,
Giai đình trưởng lục đài.
Ưng chiên tân tập học,
Tất xuất mạc tương thôi.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Gió thổi toàn hơi nóng,
Tiểu thử đà đến nơi.
Xem trúc đoán mưa rơi,
Sấm rền ngoài núi tối
Sân thềm rêu mọc dại,
Khói mưa lồng chấn song.
Diều ưng thoảng bầu không,
Dế kêu lòng bấn bách.

- Đại Thử (大暑):
Đại thử tam thu cận,
Lâm Chung cửu hạ di.
Quế luân khai Tí dạ,
Huỳnh hỏa chiếu không thì.
Cô quả yêu Nho khách,
Cô bồ trưởng mặc trì.
Giáng sa hồn quyển thượng,
Kinh sử đãi phong xuy.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Đại thử giáp mùa thu,
Lâm Chung đưa mùa hạ.
Cung quế tỏ màn trời,
Đóm lập loà chiếu đất.
Gạo Cô mời đãi khách,
Cỏ Bồ xanh đầy ao.
Ngày dài rèm vén suốt,
Kinh sử đợi ai nào?
Thơ về tiết khí mùa Thu
Mùa Thu mang vẻ đẹp lãng mạn, trầm lắng nhưng cũng là mùa gặt hái thành quả:
- Lập Thu (立秋):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Bất kỳ chu hạ tận,
Lương xuý ám nghênh thu.
Thiên Hán thành kiều thước,
Tinh nga hội ngọc lâu.
Hàn thanh huyên nhĩ ngoại,
Bạch lộ trích lâm đầu.
Nhất diệp kinh tâm tự,
Hà như đắc bất sầu.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Thấm thoát tàn mùa hạ,
Gió mát thu đến rồi.
Cầu tiên đà bắc nhịp,
Đưa người tiên sang chơi.
Ve sầu kêu gắng gỏi,
Rừng sớm ngàn sương rơi.
Chiếc lá đầu kinh động,
Mảnh hồn thu rã rời.
- Xử Thử (處暑):
Hướng lai ưng tế điểu,
Tiệm giác Bạch Tàng thâm.
Diệp há không kinh xuý,
Thiên cao bất kiến tâm.
Khí thu hoà thử thục,
Phong tĩnh thảo trùng ngâm.
Hoãn chước tôn trung tửu
Dung điều tất thượng cầm.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Mùa chim ưng săn bắt,
Đồng bãi oà khí thu.
Lá cây e niềm gió,
Trời xanh sao vô tình.
Nắng hanh lúa mau chín,
Gió se lời dế giun.
Rượu rót vừa lưng chén,
Lặng so mấy dây huyền.

- Bạch Lộ (白露):
Lộ triêm sơ thảo bạch,
Thiên khí chuyển thanh cao.
Diệp há hoà thu xuý,
Kinh khan lưỡng mấn mao.
Dưỡng tu nhân dã điểu,
Vi khách ngạc bồng hao.
Hỏa cấp thu điền chủng,
Thần hôn mạc từ lao.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Rau cỏ đầm sương trắng,
Trời quang toàn mây xanh.
Gió reo hoà lá rụng,
Tóc mai thưa bạc dần.
Chim siêng lo ngày đói,
Khách vụng mặc bồng bay.
Kíp mau tay liềm hái,
Mùa màng đâu mấy ngày.
- Thu Phân (秋分):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Cầm đàn Nam Lữ điệu,
Phong sắc dĩ cao thanh.
Vân tán phiêu diêu ảnh,
Lôi thu chấn nộ thanh.
Càn khôn năng tĩnh túc,
Hàn thử hỉ quân bình.
Hốt kiến tân lai nhạn,
Nhân tâm cảm bất kinh?
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Đàn sang bài Nam Lữ,
Vi vút gió cao vời.
Áo trời mây mỏng mảnh,
Sấm nhà trời im hơi.
Bốn phương bình tĩnh lạ,
Ấm lạnh cũng thuận hoà.
Ai điềm nhiên vững dạ,
Nhạn đầu mùa bay qua?
- Hàn Lộ (寒露):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Hàn lộ kinh thu vãn,
Triêu khan cúc tiệm hoàng.
Thiên gia phong tảo diệp,
Vạn lý nhạn tuỳ dương.
Hoá cáp bi quần điểu,
Thu điền uý tảo sương.
Nhân tri tùng bách chí,
Đông hạ sắc thương thương.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Hàn lộ thu sắp muộn,
Hoa cúc sắc phô vàng.
Gió quê đùa lá rụng,
Nhạn phương trời bay ngang.
Hoá sò, chim đồng vắng,
Mùa màng lo sương hàn.
Sánh sao cùng tùng bách,
Hồn bốn mùa kiên trinh.

- Sương Giáng (霜降):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Phong quyển thanh vân tận,
Không thiên vạn lý sương.
Dã sài tiên tế nguyệt,
Tiên cúc ngộ trùng dương.
Thu sắc bi sơ mộc
Hồng minh ức cố hương.
Thuỳ tri nhất tôn tửu,
Năng sử bách thu vong.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Gió bạt mây cao tít,
Đất thảm sương phủ dày.
Sói đồng hoang bóng nguyệt,
Trùng dương cúc lạnh vầy.
Ý thu cây trút lá,
Tiếng hồng vọng tình quê.
Góc trời nhờ chung rượu,
Hòng khuây niềm ủ ê.
Thơ về tiết khí mùa Đông
Mùa Đông là mùa của sự tĩnh lặng, nghỉ ngơi, chuẩn bị cho chu kỳ mới:
- Lập Đông (立冬):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Sương giáng hướng nhân hàn,
Khinh băng lục thủy mạn.
Thiềm tương tiêm ảnh xuất,
Nhạn đới kỷ hàng tàn.
Điền chủng thu tàng liễu,
Y cừu chế tạo khan.
Dã kê đầu thủy nhật,
Hoá thận bất tương nan.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Trở lạnh từ Sương giáng,
Mặt ao hồ váng băng.
Trăng gầy như chỉ lụa,
Nhạn lưa thưa cuối mùa.
Lúa trong bồ còn ấm,
Áo cừu may vừa xong.
Gà lôi trốn xuống nước,
Hoá sò trên bãi ròng.
- Tiểu Tuyết (小雪):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Mạc quái hồng vô ảnh,
Như kim tiểu tuyết thì.
Âm dương y thượng hạ,
Hàn thử hỉ phân ly.
Mãn nguyệt quang thiên Hán,
Trường phong hưởng thụ chi.
Hoành cầm đối lục tữ,
Do tự kiểm sầu mi.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Mống trời vô tăm tích,
Thế trần Tiểu tuyết sa.
Âm dương lìa hai ngả,
Hàn ôn sầu cách xa.
Trăng rằm cao vằng vặc,
Ngọn bấc dài lê thê.
Nào những đàn với rượu,
Hồn đơn vẫn não nề.
- Đại Tuyết (大雪):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Tích âm thành đại tuyết,
Khan xứ loạn phi phi.
Ngọc quản minh hàn dạ,
Phi thư hiểu giáng duy.
Hoàng Chung tuỳ khí cải,
Yến điểu bất minh thì.
Hà hạn thương sinh loại,
Y y tích mộ huy.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Tiết âm hàn mưa tuyết,
Phất phới mịt mù bay.
Tiếng sáo vang đêm lạnh,
Phòng văn đèn sách say.
Hoàng Chung khí chuyển luân,
Bặt âm hao chim hạt,
Muôn loài đều như một,
Ngẩn ngơ tiếc ánh chiều.

- Đông Chí (冬至):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Nhị khí câu sinh xứ,
Chu gia chính lập niên.
Tuế tinh chiêm Bắc cực,
Thuấn nhật chiếu Nam thiên.
Bái khánh triều kim điện,
Hoan ngu liệt ỷ diên.
Vạn bang ca hữu đạo,
Thuỳ cảm động chinh biên?
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Tiết dương khí sơ sinh,
Nhà Chu khai lịch mới.
Bắc cực rạng Tuế tinh,
Trời Nam hồng vầng nhật.
Sân chầu dâng bài chúc,
Ngàn dặm tiệc sum vầy.
Bốn bể ca chính đạo,
Khỏi nhọc bề binh đao?
- Tiểu Hàn (小寒):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Tiểu hàn liên Đại Lữ,
Hoan thước lũy tân sào.
Thập thực tầm hà khúc,
Hàm tử nhiễu thụ sao.
Sương ưng cận Bắc đạo,
Cẩu trĩ ẩn tùng mao.
Mạc quái nghiêm ngưng thiết,
Xuân đông chính nguyệt giao.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Tiểu hàn liền Đại Lữ,
Chim khách bận xây nhà,
Mồi kiếm quanh dòng nước,
Cỏ ngậm vòng ngọn cây.
Nhạn sớm về phương Bắc,
Bờ bụi cưu gọi bầy.
Chớ hiềm cơn cóng lạnh,
Tháng Giêng gần đến nơi.

- Đại Hàn (大寒):
Dịch thơ (Nguyễn Thị Hải)
Lạp tửu tự doanh tôn,
Kim lô thú thán ôn.
Đại hàn nghi cận hỏa,
Vô sự mạc khai môn.
Đông dữ xuân giao thế,
Tinh chu nguyệt cự tồn?
Minh triêu hoán tân luật,
Mai liễu đãi dương xuân.
Dịch nghĩa (Nguyễn Thị Hải)
Rót đầy ly tháng Chạp,
Châm thêm ngọn lửa lò.
Đại hàn bên bếp sưởi,
Đi đâu ngày rét to?
Đông rồi Xuân đắp đổi,
Sao dời năm tháng trôi.
Một sớm âm vận đổi,
Mai liễu báo Xuân ngời.
3Ứng dụng thơ 24 tiết khí trong giáo dục và văn hóa

Thơ về 24 tiết khí là cầu nối tuyệt vời giữa văn hóa truyền thống và đời sống hiện đại, mang lại nhiều ứng dụng giá trị:
- Giúp học sinh học lịch âm qua thơ: Với vần điệu dễ nhớ và nội dung cô đọng, thơ giúp học sinh, sinh viên dễ dàng ghi nhớ thứ tự và ý nghĩa của các tiết khí trong lịch âm, từ đó hiểu rõ hơn về thời vụ nông nghiệp và chu kỳ thiên nhiên.
- Đưa vào bài giảng văn, mỹ thuật, lễ hội nông nghiệp: Thơ có thể trở thành chất liệu giảng dạy phong phú trong các môn học về văn hóa, thi ca, hay mỹ thuật. Đặc biệt, thơ là linh hồn không thể thiếu trong các lễ hội nông nghiệp truyền thống, tái hiện mối liên kết giữa con người và đất đai.
- Tổ chức sự kiện đọc thơ 24 tiết khí để gắn kết văn hóa truyền thống: Các sự kiện văn hóa, lễ hội cộng đồng có thể tổ chức buổi đọc và bình thơ về 24 tiết khí, khuyến khích sáng tác mới, qua đó nâng cao nhận thức và tình yêu đối với di sản văn hóa phi vật thể của Á Đông.
24 tiết khí là hệ thống tri thức cổ xưa, là biểu tượng cho sự hài hòa và cân bằng của vũ trụ. Những bài thơ về 24 tiết khí không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật đẹp đẽ mà còn là lời nhắc nhở về nhịp điệu sống của thiên nhiên và văn hóa.
Có thể bạn quan tâm:
Mua trái cây tươi, giá tốt bán tại Bách hóa XANH:













