Unilever Mã Giảm 30K

Tuyển tập 20+ truyện kể trước giờ đi ngủ giúp bé ngủ ngon mỗi tối

Khám phá ngay tuyển tập 20+ truyện kể trước giờ đi ngủ hay nhất giúp bé thư giãn, ngủ sâu, phát triển tư duy và bồi đắp tình cảm gia đình mỗi tối.
Kể truyện trước giờ đi ngủ không chỉ là chiếc vé đưa bé vào giấc ngủ ngon và sâu, mà còn là nguồn dưỡng chất nuôi dưỡng tâm hồn, trí tuệ và sự kết nối giữa cha mẹ và con cái. Hãy cùng nhau khám phá tuyển tập 20+ truyện kể hay nhất ngay sau đây!

1Lợi ích của việc kể chuyện cho bé trước giờ đi ngủ

Việc kể chuyện cho con trước khi ngủ mang lại những lợi ích vô cùng lớn lao:
  • Giúp bé thư giãn, ngủ ngon và sâu giấc: Giọng kể ấm áp của cha mẹ giúp bé cảm thấy an toàn, dễ dàng chìm vào giấc ngủ sâu.
  • Phát triển khả năng ngôn ngữ, ghi nhớ và tư duy logic: Bé tiếp thu từ vựng mới, rèn luyện trí nhớ và khả năng sắp xếp sự kiện.
  • Tăng tương tác cảm xúc giữa cha mẹ và con: Đây là khoảnh khắc vàng để bồi đắp tình yêu thương và sự gắn bó gia đình.
  • Hình thành nhân cách, bài học đạo đức qua từng câu chuyện: Truyện giúp bé nhận thức và học hỏi những giá trị tốt đẹp như lòng nhân ái, sự trung thực.
Lợi ích của việc kể chuyện cho bé trước giờ đi ngủ
Lợi ích của việc kể chuyện cho bé trước giờ đi ngủ

2Tuyển tập 15+ truyện kể hay nhất trước giờ đi ngủ

Dưới đây là tuyển tập 20 câu truyện kể trước giờ đi ngủ được chọn ngẫu nhiên và kể tóm tắt:

Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn

Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn
Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn
Ngày xửa ngày xưa, có một nữ hoàng đang ngồi may vá bên cửa sổ, tuyết trắng phủ đầy ngoài trời. Vô tình kim đâm vào tay, máu nhỏ ba giọt trên nền tuyết. Nữ hoàng nhìn tuyết, máu, và khung cửa gỗ mun, rồi thầm ước:
– Ước gì ta có một đứa con gái da trắng như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen như gỗ mun...
Chẳng bao lâu, bà hạ sinh một cô bé đúng như lời ước: xinh đẹp tuyệt trần, tên là Bạch Tuyết. Nhưng tiếc thay, nữ hoàng mất sớm. Vua tái hôn với một người phụ nữ kiêu ngạo, xinh đẹp nhưng độc ác. Bà ta có một chiếc gương thần, mỗi ngày đều hỏi:
– Gương kia ngự ở trên tường,
Ai là người đẹp nhất trần thế?
Gương thần đáp:
– Thưa hoàng hậu, bà đẹp nhất trần gian.
Nhưng khi Bạch Tuyết lớn lên, gương trả lời khác:
– Thưa hoàng hậu, bà đẹp thật, nhưng Bạch Tuyết đẹp hơn nhiều.
Nổi cơn ghen tuông, hoàng hậu sai thợ săn đưa Bạch Tuyết vào rừng và giết đi. Nhưng người thợ săn thương cô bé, tha cho cô rồi bỏ chạy. Bạch Tuyết lang thang trong rừng, cho đến khi thấy một ngôi nhà nhỏ xíu với mọi đồ đạc đều bé tẹo.
Đó là nhà của bảy chú lùn. Cô bé dọn dẹp sạch sẽ rồi ngủ thiếp đi. Tối đến, các chú lùn về nhà, bất ngờ thấy có người lạ, nhưng khi thấy Bạch Tuyết ngoan ngoãn và kể lại chuyện, họ thương cảm và mời cô ở lại. Bảy chú lùn đi làm ban ngày, dặn cô đừng mở cửa cho người lạ.
Biết Bạch Tuyết còn sống, hoàng hậu hóa trang thành bà lão bán hàng và tìm đến rừng sâu. Bà ta ba lần mưu hại Bạch Tuyết:
Lần đầu, bà giả làm người bán dây lưng, siết chặt bụng Bạch Tuyết đến ngất xỉu.
Lần hai, bà tặng một chiếc lược tẩm độc, khi Bạch Tuyết chải liền ngất.
Lần ba, bà đưa một quả táo đỏ nửa bên – một nửa có độc. Bạch Tuyết cắn trúng và gục ngã.
Lần này, các chú lùn không thể cứu cô được. Tưởng cô đã chết, họ đặt nàng vào quan tài pha lê trên núi, ngày đêm trông coi.
Thời gian trôi qua, một hoàng tử đi ngang qua, nhìn thấy cô gái tuyệt đẹp trong quan tài. Chàng thốt lên:
– Nàng chính là người ta tìm kiếm! Xin hãy cho ta mang nàng đi...
Các chú lùn thương xót, đồng ý. Khi lính của hoàng tử nâng quan tài lên, một miếng táo độc văng ra khỏi cổ họng Bạch Tuyết. Nàng mở mắt tỉnh dậy, thở dài như vừa tỉnh từ một giấc mơ dài.
Hoàng tử vui mừng ngỏ lời cầu hôn, Bạch Tuyết đồng ý. Họ tổ chức lễ cưới long trọng, mời cả vương quốc – kể cả mụ hoàng hậu. Khi soi gương, gương trả lời:
– Thưa hoàng hậu, bà đẹp đấy,
Nhưng hoàng hậu mới – đẹp tuyệt trần!
Hoàng hậu ghen tức đến phát điên. Khi đến dự lễ cưới và thấy Bạch Tuyết còn sống, mụ chết đứng vì tức giận, kết thúc số phận độc ác của mình.

Sự tích Cây Khế (Ăn khế trả vàng)

Sự tích Cây Khế (Ăn khế trả vàng)
Sự tích Cây Khế (Ăn khế trả vàng)
Ngày xửa ngày xưa, trong một ngôi làng nhỏ, có hai anh em sống nương tựa vào nhau từ khi cha mẹ mất sớm. Cha mẹ để lại cho họ một ít tài sản, đủ để hai anh em sống yên ổn qua ngày. Thế nhưng, tính tình của họ lại rất khác nhau: người anh thì lười biếng, ham chơi, mọi việc nặng nhọc đều đổ lên vai người em hiền lành và siêng năng. Dù vất vả, người em vẫn không một lời than phiền.
Khi lớn lên, người anh muốn cưới vợ nên đòi chia gia tài. Vì tham lam và gian xảo, anh ta tìm cách chiếm hết nhà cửa, trâu bò và của cải, chỉ để lại cho người em một túp lều nhỏ xiêu vẹo cùng một mảnh vườn có cây khế. Mặc kệ em mình nghèo khổ, người anh sống sung sướng với phần lớn tài sản.
Thế rồi, vào một năm nọ, cây khế trong vườn người em bỗng trĩu quả vàng ươm, mùi thơm ngào ngạt. Người em mừng rỡ, hy vọng bán khế đổi lấy ít gạo. Nhưng một hôm, từ đâu bay đến một con chim to lớn, đậu xuống ăn hết những quả khế chín. Người em buồn bã chạy ra than thở:
- Chim ơi, ta chỉ có mỗi cây khế này để sống, nếu chim ăn hết thì ta biết lấy gì để đổi gạo?
Lạ thay, chim khổng lồ quay lại nói:
- Ăn một quả, trả một cục vàng. May túi ba gang, mang đi mà đựng.
Ban đầu, người em còn ngạc nhiên, nhưng rồi cũng làm theo lời chim, may một chiếc túi đúng ba gang tay. Quả nhiên, hôm sau chim trở lại, cõng người em bay đi thật xa, qua núi non, biển cả rồi tới một hòn đảo đầy châu báu. Người em chỉ lấy vừa đủ đầy túi rồi xin trở về. Nhờ vậy, từ đó cậu sống đàng hoàng, không còn khổ cực.
Người anh nghe chuyện, nổi lòng tham, bèn dụ người em đổi lại tài sản, lấy lại cây khế. Ít lâu sau, chim thần lại đến. Người anh cũng bắt chước may túi, nhưng không phải ba gang mà là chín gang. Tới đảo, anh ta hốt hết vàng bạc, nhét vào đầy túi, thậm chí giắt đầy trong người. Trên đường về, chim bay nặng nề, nhiều lần bảo vứt bớt vàng nhưng người anh không nghe. Cuối cùng, chim đuối sức, nghiêng cánh, người anh cùng túi vàng rơi tõm xuống biển, mất tích mãi mãi.

Cô bé Quàng khăn Đỏ

Cô bé Quàng khăn Đỏ
Cô bé Quàng khăn Đỏ
Ngày xưa, có một cô bé rất ngoan ngoãn và dễ thương, ai gặp cũng quý mến. Bà ngoại cô bé thương cô nhất, nên tự tay may cho cô một chiếc khăn choàng bằng nhung đỏ. Cô bé thích lắm, đi đâu cũng quàng theo, từ đó ai cũng gọi em là Cô Bé Quàng Khăn Đỏ.
Một ngày nọ, mẹ cô gọi em lại và nói:
– Bà con đang ốm. Mẹ đã chuẩn bị giỏ bánh và sữa. Con hãy mang đến cho bà, nhưng nhớ đi thẳng đường rừng, đừng la cà và cũng đừng nói chuyện với người lạ.
Cô bé vâng lời, xách giỏ bánh lên đường. Trời hôm đó trong xanh, chim hót líu lo, những bông hoa dại đung đưa trong nắng. Đang đi, cô bé gặp một con sói lớn, nhưng vì không biết sói là loài vật nguy hiểm nên không hề sợ. Sói nói:
– Chào cô bé, cô đi đâu đấy?
– Cháu đến nhà bà ngoại. Bà cháu ở cuối rừng, trong căn nhà nhỏ có hàng rào trắng.
Sói mỉm cười nham hiểm. Nó nghĩ thầm: “Nếu mình nhanh chân, có thể đến nhà bà trước, ăn thịt bà, rồi giả làm bà để lừa ăn luôn con bé này.”
Sói liền tìm cách giữ chân cô bé:
– Cô bé nhìn xem, hoa trong rừng đẹp biết bao! Sao cháu không hái một bó tặng bà?
Cô bé nghe bùi tai, liền rẽ vào rừng, mải mê hái hoa. Trong khi đó, sói rẽ sang con đường tắt, chạy một mạch tới nhà bà ngoại.
Sói gõ cửa. Bà yếu ớt hỏi:
– Ai đấy?
– Cháu đây, Quàng Khăn Đỏ, cháu mang bánh và sữa đến cho bà! – Sói giả giọng.
– Vào đi, cửa không khóa. – Bà đáp.
Sói lao vào nhà, nuốt chửng bà trong chớp mắt. Rồi nó mặc áo ngủ của bà, đội mũ ngủ, trèo lên giường giả vờ nằm ngủ, chờ đợi con mồi thứ hai.
Một lúc sau, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ tới nơi. Cửa vẫn hé mở. Em vào nhà, ngạc nhiên khi thấy bà trông thật lạ:– Bà ơi, sao tai bà to thế?
– Để bà nghe cháu rõ hơn.
– Bà ơi, sao mắt bà to thế?
– Để bà nhìn cháu rõ hơn.
– Bà ơi, sao tay bà to thế?
– Để bà ôm cháu chặt hơn.
– Bà ơi, sao miệng bà to quá vậy?
– Để bà… ăn cháu ngon hơn!
Ngay lập tức, sói nhảy chồm lên định nuốt cô bé. Em hét lên thất thanh.
May thay, lúc đó có một bác thợ săn đi ngang qua, nghe thấy tiếng kêu liền lao vào. Bác thấy sói nằm trên giường, bụng phình to, liền dùng dao rạch bụng sói. Bà và cô bé cùng chui ra, chỉ bị sợ chứ không sao cả.
Sau đó, cả ba người bỏ đầy đá vào bụng sói rồi khâu lại. Khi sói tỉnh dậy định trốn, nó bị sức nặng của đá kéo ngã xuống mà chết.
Từ đó, Cô Bé Quàng Khăn Đỏ không bao giờ rời khỏi đường chính khi đi trong rừng, và luôn ghi nhớ lời mẹ dặn: không nói chuyện với người lạ.

Tấm Cám

Tấm Cám
Tấm Cám
Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ tên là Tấm và Cám. Tấm hiền lành, chăm chỉ, còn Cám thì lười biếng. Cha Tấm mất sớm, Tấm phải sống với dì ghẻ – cũng là mẹ của Cám. Dì ghẻ chỉ thương Cám, còn Tấm thì bắt làm đủ việc nặng nhọc suốt ngày.
Một hôm, mẹ Cám sai hai chị em đi bắt cá, ai bắt được nhiều sẽ được thưởng. Tấm siêng năng nên bắt được đầy giỏ cá, còn Cám mải chơi chẳng được gì. Cám lừa Tấm lội xuống ao gội đầu rồi trộm hết cá đem về nhà. Tấm lên bờ, thấy giỏ cá trống trơn liền ngồi khóc. Bụt hiện lên, an ủi và bảo Tấm nuôi cá bống còn sót lại trong giỏ. Hằng ngày Tấm đem cơm ra giếng gọi cá bống lên ăn.
Dì ghẻ thấy lạ, sai Cám theo dõi rồi lừa Tấm đi chăn trâu xa, ở nhà hai mẹ con bắt cá bống ăn thịt. Tấm khóc, Bụt lại hiện lên, bảo Tấm nhặt xương cá, bỏ vào bốn hũ và chôn ở bốn chân giường.
Về sau, nhà vua mở hội, ai cũng được đi xem, chỉ Tấm bị bắt ở nhà nhặt thóc lẫn gạo. Bụt lại giúp, sai chim sẻ nhặt giúp Tấm. Nhưng Tấm không có quần áo đẹp đi hội nên lại khóc. Bụt bảo Tấm đào bốn hũ chôn dưới giường. Từ đó, Tấm có váy áo đẹp, giày thêu, ngựa và yên cương để đi dự hội. Trên đường, Tấm đánh rơi một chiếc giày.
Nhà vua đi qua, voi ngự không chịu đi vì giày vướng ở chỗ lầy. Vua nhặt được giày, ra lệnh ai vừa giày sẽ được làm hoàng hậu. Bao cô gái thử đều không vừa, chỉ Tấm mang vừa nên được vua rước về cung.
Mẹ con Cám tức lắm. Nhân dịp giỗ cha, Tấm xin về làm giỗ. Dì ghẻ bảo Tấm trèo lên cây cau rồi lén chặt gốc làm Tấm ngã xuống ao chết. Mẹ con Cám đem quần áo Tấm cho Cám giả làm hoàng hậu.
Tấm chết hóa thành chim Vàng Anh, bay về cung hót quanh vua. Cám giết chim, chôn lông, nơi đó mọc lên hai cây xoan, rồi bị chặt làm khung cửi. Khung cửi dệt vải lại kêu rợn người khiến Cám sợ, đem đốt. Tro bay lên mọc thành cây thị có một quả to, rơi vào bị một bà lão bán nước. Quả thị nứt ra, Tấm chui ra giúp bà lão dọn nhà.
Một hôm vua đi ngang, thấy miếng trầu têm khéo như Tấm từng làm, hỏi bà lão rồi nhận ra Tấm. Vua mừng rỡ đón Tấm về cung. Nghe Tấm kể lại mọi chuyện, nhà vua tức giận đuổi mẹ con Cám ra khỏi cung. Vừa ra khỏi thành thì giông bão nổi lên, mẹ con Cám bị sét đánh chết.
Từ đó, Tấm và nhà vua sống hạnh phúc bên nhau.

Rùa và Thỏ

Rùa và Thỏ
Rùa và Thỏ
Ngày xửa ngày xưa, trong khu rừng xanh tươi mát, có một chú Thỏ nổi tiếng với đôi chân nhanh nhẹn và tài chạy cực giỏi. Thỏ ta thường khoe khoang khắp nơi về tốc độ của mình, lúc nào cũng vỗ ngực nói:
– Trong khu rừng này, ai chạy nhanh hơn tôi chứ? Không ai cả!
Thỏ chạy như bay từ sáng đến tối, nhảy nhót khắp nơi. Các loài vật khác dù thích Thỏ, nhưng cũng bắt đầu thấy chán khi cứ nghe Thỏ khoe mãi. Một hôm, trong khi Thỏ đang khoe khoang như thường lệ, thì chú Rùa – một con vật nổi tiếng là chậm chạp – từ tốn nói:
– Thỏ ơi, đừng vội kiêu ngạo. Dù tôi chậm, nhưng nếu cố gắng, tôi tin mình cũng có thể thắng cậu trong một cuộc đua.
Mọi con vật đều tròn mắt ngạc nhiên. Thỏ thì ôm bụng cười lăn:
– Ha ha ha! Rùa mà đòi đua với tôi á? Thật là buồn cười! Nhưng nếu cậu thích, tôi sẵn sàng!
Vậy là cả khu rừng háo hức chờ đợi cuộc đua. Đường đua được vạch từ bìa rừng đến gốc cây cổ thụ to lớn bên con suối mát.
Khi có hiệu lệnh xuất phát, Thỏ phóng như tên bắn, còn Rùa thì lặng lẽ nhấc từng bước chậm chạp. Nhưng Rùa không hề dừng lại, từng bước đều đều, chắc chắn. Thỏ chạy được một đoạn dài, thấy Rùa ở tít phía sau liền nghĩ:"Rùa chậm như thế, mình tranh thủ chợp mắt một chút rồi chạy tiếp cũng được!"
Thế là Thỏ ngả mình dưới một tán cây râm mát, lim dim ngủ lúc nào không hay.
Trong khi đó, Rùa vẫn kiên trì bước đi, dù mệt nhưng không dừng lại. Cậu thở hổn hển nhưng mắt luôn hướng về đích. Rồi cậu vượt qua Thỏ đang ngủ say và cứ thế tiếp tục tiến về phía trước.
Đến khi Thỏ tỉnh dậy, mặt trời đã ngả bóng. Cậu bật dậy, chạy như bay đến đích, nhưng... Ôi không! Rùa đã đến từ lúc nào rồi, đang ngồi nghỉ dưới gốc cây, cười hiền lành!
Thỏ thẹn quá, không nói được lời nào. Rùa nhẹ nhàng nói:
– Chạy nhanh không bằng kiên trì, Thỏ à. Không nên chủ quan, cũng đừng coi thường người khác!
Từ đó, Thỏ không còn kiêu ngạo nữa. Cậu và Rùa trở thành đôi bạn thân, cùng nhau luyện tập và giúp đỡ các con vật khác trong rừng.

Công chúa ngủ trong rừng

Công chúa ngủ trong rừng
Công chúa ngủ trong rừng
Ngày xửa ngày xưa, tại một vương quốc xa xôi, nhà vua và hoàng hậu sống trong lâu đài nguy nga nhưng chưa có con nối dõi. Họ cầu nguyện, ước ao suốt nhiều năm, cho đến một ngày, hoàng hậu hạ sinh một bé gái xinh đẹp như thiên thần. Nhà vua vui mừng mở tiệc lớn mời khắp vương quốc đến dự, đặc biệt là 12 bà tiên để ban phước lành cho công chúa.
Trong bữa tiệc, từng bà tiên ban tặng cho công chúa những món quà kỳ diệu: người cho vẻ đẹp, người cho giọng hát ngọt ngào, người cho trí tuệ thông minh… Nhưng khi đến bà tiên thứ 12, bà tiên thứ 13 – người không được mời vì nhà vua chỉ có 12 chiếc đĩa vàng – bất ngờ xuất hiện. Giận dữ vì bị bỏ quên, bà tiên độc ác rút cây quyền trượng ra nguyền rủa:
– Đến năm 16 tuổi, công chúa sẽ bị kim quay đâm vào ngón tay và chết!
Cả triều đình sững sờ. May thay, bà tiên thứ 12 chưa kịp ban phước liền đứng dậy nói:
– Ta không thể xóa lời nguyền, nhưng có thể giảm nhẹ: công chúa sẽ không chết, mà chỉ rơi vào giấc ngủ kéo dài 100 năm, cho đến khi có hoàng tử thật lòng yêu nàng đến đánh thức.
Dù nhà vua ra lệnh đốt hết mọi trục quay trong vương quốc, số phận vẫn không thể thay đổi...
Năm tháng trôi qua, công chúa lớn lên xinh đẹp, thông minh, và hiền hậu. Vào đúng ngày sinh nhật thứ 16, nàng lang thang trong lâu đài, vô tình đi lạc lên một căn gác cũ kỹ. Trong đó, một bà lão đang quay sợi – chính là bà tiên độc ác đội lốt thường dân. Công chúa tò mò lại gần, chạm tay vào trục quay và... ngón tay nàng chảy máu. Ngay lập tức, nàng ngã xuống giường và chìm vào giấc ngủ sâu.
Lời nguyền ứng nghiệm. Nhưng bà tiên tốt bụng trước đó cũng đã chuẩn bị. Ngay khi công chúa ngủ, cả lâu đài – từ vua, hoàng hậu, lính gác đến đầu bếp, mèo, chó – đều ngủ yên. Một rừng cây rậm rạp mọc lên bao phủ quanh lâu đài, che giấu tất cả khỏi thế giới bên ngoài.
Năm tháng trôi qua. Một trăm năm sau, có một hoàng tử nghe kể về truyền thuyết “Công chúa ngủ trong rừng” và quyết tâm đến khám phá. Rừng cây tưởng chừng không thể vượt qua, nhưng khi chàng hoàng tử đến gần, cây cối tự động tách ra, mở lối vào lâu đài.
Bước vào bên trong, hoàng tử thấy mọi người đang ngủ yên như tượng. Trong căn phòng cuối cùng, chàng thấy công chúa đang nằm ngủ say với vẻ đẹp dịu dàng, thuần khiết. Trái tim chàng rung động. Chàng cúi xuống, nhẹ nhàng hôn lên trán nàng.
Ngay khoảnh khắc ấy, lời nguyền tan biến. Công chúa tỉnh dậy, mỉm cười dịu dàng với hoàng tử. Cùng lúc, cả lâu đài thức tỉnh, vua và hoàng hậu ngơ ngác nhìn quanh, bếp lò cháy bùng, lũ mèo kêu lên,…
Cuối cùng, hoàng tử và công chúa kết hôn trong một lễ cưới long trọng. Họ sống hạnh phúc bên nhau trọn đời, và lời nguyền năm xưa chỉ còn là ký ức xa xăm trong giấc ngủ dài trăm năm.

Sọ Dừa

Sọ Dừa
Sọ Dừa
Ngày xưa, có hai vợ chồng nghèo hiền lành nhưng tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Một hôm, người vợ đi rừng, khát nước quá nên uống nước mưa đọng trong cái sọ dừa. Sau đó, bà mang thai, rồi sinh ra một đứa bé không tay chân, người tròn như quả dừa. Ban đầu bà muốn bỏ con, nhưng em bé biết nói, xin mẹ giữ lại. Bà thương con và đặt tên là Sọ Dừa.
Lớn lên, tuy hình dáng kỳ lạ, Sọ Dừa rất ngoan và xin mẹ đi chăn bò thuê cho nhà phú ông. Dù lăn tròn đi làm nhưng cậu chăn bò giỏi, bò béo khỏe, ăn ít cơm nên phú ông rất hài lòng.
Phú ông có ba cô con gái, thay phiên nhau mang cơm cho Sọ Dừa. Hai chị cả chê bai, khinh rẻ, còn cô út hiền lành, thương người nên đối xử tốt với cậu. Một hôm, cô út phát hiện Sọ Dừa thật ra là chàng trai tuấn tú, giả dạng lăn tròn khi có người nhìn. Cô đem lòng yêu mến.
Khi hết mùa làm, Sọ Dừa nhờ mẹ đến hỏi cưới con gái phú ông. Phú ông cười khẩy, đưa ra sính lễ rất lớn để làm khó. Không ngờ đến ngày hẹn, Sọ Dừa chuẩn bị đủ lễ vật. Hai cô chị chê bai, chỉ cô út bằng lòng. Trong đám cưới, Sọ Dừa hiện thân là chàng trai khôi ngô khiến ai cũng bất ngờ.
Vợ chồng sống hạnh phúc. Sọ Dừa chăm học và thi đỗ Trạng nguyên, được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa vợ dao, đá lửa và hai quả trứng gà để phòng thân.
Hai chị vì ghen ghét, lừa em ra biển rồi đẩy xuống nước. May nhờ có dao, cô út rạch bụng cá kình thoát thân, dạt vào đảo hoang. Cô sống bằng đá lửa nướng cá, hai quả trứng nở ra gà trống và mái làm bạn.
Một hôm, thuyền của Sọ Dừa đi ngang, gà trống gáy to:
"Ò... ó... o...
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về."
Sọ Dừa nhận ra vợ, đón về nhà, làm tiệc lớn mừng đoàn tụ. Hai cô chị tưởng em đã chết, liền đến giả vờ thương tiếc. Đến khi cô út xuất hiện, hai chị xấu hổ quá bỏ đi biệt xứ.

Cô bé bán diêm

Cô bé bán diêm
Cô bé bán diêm
Vào một đêm giao thừa lạnh giá, tuyết phủ trắng xóa khắp phố phường, một cô bé bán diêm nhỏ bé, đầu trần chân đất, lang thang giữa đường phố vắng vẻ. Em đã mất cả hai chiếc giày – một chiếc bị xe nghiến, một chiếc bị người ta nhặt mang đi – và giờ đây, đôi chân em đỏ ửng, tím tái vì rét. Trong chiếc tạp dề cũ kỹ là những bao diêm mà em không thể bán được, dù đã cố gắng chen vào đám đông đang vội vã đi qua. Không ai quan tâm đến sự hiện diện của em – một đứa trẻ nghèo khổ, đói lạnh giữa ngày lễ hội.
Em bé tìm được một góc tường khuất gió, ngồi co ro trong giá buốt. Không dám trở về nhà vì sợ bị cha mắng do chưa bán được que diêm nào, em lấy ra một que và quẹt lên để sưởi ấm. Trong ánh lửa bập bùng, em tưởng tượng mình đang ngồi trước lò sưởi ấm áp. Nhưng khi lửa tắt, mọi thứ lại biến mất, trả em về với thực tại lạnh lẽo. Que diêm thứ hai được quẹt lên, đưa em đến một khung cảnh ấm cúng: bàn ăn thịnh soạn, ngỗng quay béo ngậy bay về phía em. Nhưng rồi ánh sáng cũng vụt tắt.
Tiếp đó, em quẹt que diêm thứ ba. Em nhìn thấy một cây thông Noel rực rỡ, lung linh ánh nến và màu sắc, làm trái tim nhỏ bé bừng sáng niềm hy vọng. Em đưa tay chạm vào, nhưng ánh sáng lại tắt ngấm. Em ngước nhìn lên bầu trời, thấy những ngôi sao bừng sáng, và nhớ lời bà từng nói: “Khi một vì sao rơi là có một linh hồn bay lên trời.” Em lại nhớ bà – người duy nhất yêu thương em – và trong lần quẹt diêm kế tiếp, bà hiện ra dịu dàng, ấm áp như xưa. Em òa khóc xin bà đừng bỏ em lại, xin được theo bà lên trời.
Không muốn bà biến mất, em tiếp tục quẹt thêm nhiều que diêm, cho đến khi chúng cháy hết. Cuối cùng, bà nắm lấy tay em, và cả hai bà cháu cùng bay lên trời, rời khỏi đói rét, cô đơn, giận dữ và đòn roi. Họ đã đến một nơi không còn nỗi buồn.
Sáng hôm sau, trong ánh sáng tinh khôi của năm mới, mọi người phát hiện cô bé đã chết cóng bên bức tường, môi mỉm cười và tay ôm lấy bao diêm gần như cháy hết. Không ai biết rằng, trong những khoảnh khắc cuối cùng, em đã được sống trong ảo mộng đẹp đẽ, được gặp lại người bà thân yêu và ra đi trong bình yên.

Cóc kiện trời

Cóc kiện trời
Cóc kiện trời
Ngày xưa, trời hạn hán triền miên. Nắng như đổ lửa, sông cạn, suối khô, cây cối héo úa, muôn loài đói khát lả lơi. Ai cũng oán than, nhưng trời vẫn cứ im lìm.
Có một con Cóc tía sống bên gốc đa, thấy thế bèn tự nhủ:“Không thể ngồi chờ chết, ta phải lên trời mà kiện!”
Khởi đầu chỉ có một mình, nhưng Cóc không nản. Đến vũng đầm khô, Cóc gặp Cua càng đang thở dài. Cua hỏi Cóc đi đâu. Nghe chuyện kiện trời, Cua lắc đầu:– Trời xa thế, đi sao nổi mà kiện với tụng!
Nhưng sau khi Cóc nài nỉ hết lời, Cua cũng đồng ý đi cùng.
Đi tiếp, hai bạn gặp Cọp nằm phơi bụng thở thoi thóp và Gấu đang rũ rượi vì đói khát. Cóc rủ. Cọp còn lưỡng lự, Gấu gạt đi ngay:– Đến như Cua còn theo Cóc được, sao ta không đi?
Vậy là cả bọn thành một đoàn. Trên đường lại gặp đàn Ong khô mật và Cáo cháy sém cả đuôi vì nắng. Họ cũng nhập hội.
Đoàn đi mãi, cuối cùng cũng tới cổng thiên đình. Cóc nhanh trí phân công:
– Cua nấp trong chum nước, Ong và Cáo sau cánh cửa, Cọp và Gấu đứng sau lưng mình. Khi nghe hiệu lệnh nghiến răng, tất cả xông ra!
Sắp đặt xong, Cóc nhảy lên trống trời, đánh ba hồi ầm ầm như sấm động. Ngọc Hoàng đang ngủ trưa giật mình bực bội, sai Thiên Lôi ra xem. Thiên Lôi vừa lau mạng nhện trên búa sét vừa chạy ra, thấy mỗi một con Cóc bé xíu ngồi oai vệ.
Búa thì to, Cóc thì nhỏ, đánh cũng... phí sức. Thế là Thiên Lôi quay vào tâu. Ngọc Hoàng cáu, sai Gà trời ra mổ chết Cóc.
Gà vừa bay ra, Cóc nghiến răng, Cáo nhảy ra cắn cổ tha đi. Ngọc Hoàng lại sai Chó nhà trời, Gấu đón đầu tát chết. Rồi đến lượt Thiên Lôi thật sự ra tay.
Thiên Lôi vác búa sét ra, Ong từ sau cánh cửa bay vù ra, đốt thẳng vào mũi. Đau quá, Thiên Lôi nhảy ngay vào chum nước trốn, ai ngờ Cua trong đó đã chờ sẵn, kẹp chặt cổ! Thiên Lôi la oai oái, vừa vùng lên thì Cọp gầm một tiếng, lao ra xé xác Thiên Lôi tan tành.
Ngọc Hoàng sợ xanh mặt, xin giảng hoà. Cóc đồng ý, ra hiệu cho Cọp và Gấu mang xác Thiên Lôi về. Ngọc Hoàng đích thân dùng nước cam lồ chữa lành cho ông.
Ngọc Hoàng hỏi:
– Cậu Cóc có chuyện gì lên đây làm rối thiên đình thế?
Cóc đáp:
– Dưới trần gian hạn hán ba năm, cây cối khô héo, vạn vật chết khát. Chúng con phải lên xin Ngọc Hoàng làm mưa cứu dân.
Ngọc Hoàng vội đáp:– Ừ ừ, từ nay có hạn, cậu Cóc chỉ cần nghiến răng, ta sẽ cho mưa ngay! Cậu đừng lên nữa, phiền lắm!
Từ đó, mỗi khi Cóc nghiến răng là trời mưa, và dân gian có câu:
“Con Cóc là cậu ông Trời
Hễ ai đánh cóc thì trời đánh cho!”

Ông lão đánh cá và con cá vàng

Ông lão đánh cá và con cá vàng
Ông lão đánh cá và con cá vàng
Ngày xửa ngày xưa, có hai vợ chồng ông lão nghèo sống trong một túp lều nát bên bờ biển. Mỗi ngày, ông lão ra khơi quăng lưới, còn bà vợ thì quay sợi trong nhà. Cuộc sống tuy nghèo nhưng yên bình, cho đến một ngày định mệnh...
Hôm ấy, ông lão quăng lưới ba lần. Hai lần đầu chỉ kéo lên toàn rong rêu, vỏ sò. Đến lần thứ ba, ông ngạc nhiên khi thấy trong lưới là một con cá vàng óng ánh, biết nói tiếng người!
Cá vàng van xin:
– Ông lão hiền lành, xin hãy thả tôi trở lại biển. Tôi sẽ đền đáp ông bằng bất kỳ điều ước nào!
Ông lão nhân hậu, không đòi hỏi gì, liền thả cá đi mà chẳng lấy gì cả. Khi trở về, kể cho vợ nghe, bà lão nổi giận mắng:
– Ông thật ngu ngốc! Có cơ hội mà không xin gì! Mau quay lại, bảo nó cho tôi cái máng lợn mới, cái cũ rách nát cả rồi!
Ông lão thở dài, ra biển gọi cá vàng. Cá hiện lên, nghe xong liền nói:
– Về đi, máng lợn mới đã có rồi.
Về nhà, quả nhiên máng mới tinh. Nhưng bà vợ không bằng lòng lâu. Hôm sau, lại bắt ông đi xin... cái nhà mới khang trang. Cá vàng vẫn chiều theo.
Nhưng lòng tham không dừng lại. Ngày qua ngày, bà vợ đòi:
– Làm phu nhân quý tộc!
– Làm nữ hoàng!
– Làm nữ hoàng biển cả, để cá vàng hầu hạ ta mãi mãi!
Ông lão run rẩy ra biển, lần cuối gọi cá. Biển lúc này nổi sóng đen ngòm, gió gào thét. Cá vàng hiện lên, nghe xong chỉ im lặng, rồi lặn xuống không nói lời nào.
Ông lão lủi thủi trở về. Trước mắt ông, không còn lâu đài, không phu nhân, không ngai vàng. Chỉ còn túp lều rách nát và cái máng lợn vỡ ngày nào. Bà vợ ngồi đó, trợn mắt thất thần.

Cây tre trăm đốt

Cây tre trăm đốt
Cây tre trăm đốt
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng quê kia, có một chàng trai tên là Khoai, hiền lành, khỏe mạnh, sống bằng nghề làm thuê cuốc mướn. Một ngày nọ, anh đến làm thuê cho nhà một ông phú hộ giàu có nhưng keo kiệt. Biết anh siêng năng, lại thật thà, ông phú hộ muốn lợi dụng anh, bèn hứa hão:
– Mày cứ chăm chỉ làm việc cho tao, ba năm sau, tao sẽ gả con gái xinh đẹp của tao cho mày.
Tin tưởng lời hứa, Khoai làm việc ngày đêm, không quản nắng mưa, không đòi hỏi tiền công. Thế nhưng, khi ba năm trôi qua, ông phú hộ nuốt lời, lật lọng không muốn gả con. Ông định gả con gái cho một nhà giàu khác, coi như chưa từng hứa gì với chàng trai.
Để đuổi khéo Khoai, ông phú hộ ra điều kiện:
– Nếu mày muốn cưới con gái tao, thì hãy lên rừng, tìm cho được một cây tre có đúng một trăm đốt để tao làm cột nhà cưới vợ. Tìm được thì tao sẽ gả con gái cho.
Vì yêu thương cô gái, chàng trai quyết chí lên rừng, lặn lội khắp nơi tìm tre trăm đốt. Nhưng tìm mãi, hết rừng này sang rừng khác, tre thì nhiều nhưng không có cây nào đủ một trăm đốt. Quá mệt mỏi và tuyệt vọng, anh ngồi ôm mặt khóc.
Bỗng đâu có một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc, hiện ra trước mặt, giọng từ tốn hỏi:
– Vì sao con khóc?
Khoai kể lại đầu đuôi mọi chuyện. Nghe xong, ông lão mỉm cười rồi bảo:
– Con hãy đốn đủ 100 đốt tre rời, sau đó đọc câu thần chú: “Khắc nhập, khắc nhập, khắc nhập”, cây tre sẽ tự kết lại thành một cây tre trăm đốt. Khi nào muốn tách ra, thì đọc: “Khắc xuất, khắc xuất, khắc xuất”.
Nghe theo lời dặn, Khoai làm y như vậy. Quả nhiên, các khúc tre nối liền lại thành một cây tre dài đúng một trăm đốt. Mừng rỡ, anh định vác về, nhưng vướng quá không mang nổi, ông lão lại bảo đọc câu “Khắc xuất...” để tách ra.
Chàng trai bó tre lại gánh về nhà, vừa đến nơi thì thấy hai họ đang làm lễ cưới rình rang, chuẩn bị rước dâu cho con gái phú hộ với người khác. Hiểu ra mình bị lừa, anh lặng lẽ trải tre ra sân, đọc lớn:
– Khắc nhập, khắc nhập, khắc nhập!
Ngay lập tức, cây tre trăm đốt hiện ra giữa sân, khiến mọi người sững sờ. Anh mời ông phú hộ ra xem "thành quả" của mình. Ông ta vừa cúi xuống đếm từng đốt tre, vừa chưa biết nói sao, thì chàng trai nhanh miệng đọc:
– Khắc nhập, khắc nhập, khắc nhập!
Bỗng chốc, ông phú hộ bị dính chặt vào cây tre, không nhúc nhích được, vừa xấu hổ vừa hoảng sợ.
Sợ hãi và ân hận, ông xin lỗi và đồng ý gả con gái như đã hứa. Khoai đọc:
– Khắc xuất, khắc xuất, khắc xuất!
Ngay tức thì, ông được thả ra. Cuối cùng, chàng trai nghèo và cô con gái nhà phú hộ nên duyên vợ chồng, sống với nhau hạnh phúc suốt đời.

Sự tích chú Cuội cung trăng

Sự tích chú Cuội cung trăng
Sự tích chú Cuội cung trăng
Ngày xửa ngày xưa, ở một vùng nọ, có chàng tiều phu tên là Cuội, sống hiền lành, chăm chỉ. Mỗi ngày, Cuội vào rừng đốn củi đem về bán lấy gạo nuôi thân.
Một hôm, Cuội tình cờ đi ngang qua một hang cọp gần con suối nhỏ, thấy bốn con cọp con đang đùa giỡn mà không thấy cọp mẹ đâu, Cuội liền ra tay chém chết cả bốn. Nhưng vừa lúc ấy, cọp mẹ trở về. Cuội sợ hãi trèo vội lên một cành cây gần đó để trốn.
Từ trên cao, Cuội chứng kiến cọp mẹ gầm thét rồi chạy tới một gốc cây lạ gần suối, ngắt lá nhai và mớm cho con mình. Kỳ diệu thay, chỉ trong chốc lát, bốn con cọp đã sống lại khỏe mạnh như chưa từng bị thương.
Đợi cọp đi xa, Cuội mừng rỡ xuống xem, đào cả gốc cây lạ ấy mang về. Trên đường, chàng gặp một ông lão ăn mày đã chết bên vệ đường. Nghĩ đến phép màu, Cuội liền dùng lá cây mớm thử, và thật kỳ lạ, ông lão tỉnh dậy, khỏe mạnh như thường.
Biết cây quý, ông lão dặn rằng: “Đây là cây cải tử hoàn sinh. Con nên giữ gìn cẩn thận, nhớ lấy lời ta: đừng bao giờ tưới cây bằng nước bẩn, kẻo cây sẽ bay lên trời mất đấy.”
Cuội cảm tạ, mang cây về trồng ở vườn nhà, ngày ngày chăm sóc, chỉ tưới bằng nước giếng trong. Từ đó, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Chàng nổi tiếng khắp vùng là người có phép lạ.
Một ngày kia, Cuội cứu sống con gái một phú ông bị chết đuối. Biết ơn, phú ông gả con gái cho chàng. Cuộc sống của vợ chồng Cuội êm ấm, hạnh phúc.
Nhưng rồi tai họa ập đến. Giặc tràn qua làng, biết Cuội có cây thuốc quý, chúng lẻn vào nhà giết vợ Cuội và móc ruột vứt sông, hòng khiến chàng không thể cứu được nàng. Cuội về, cố mớm lá cây nhưng vô ích vì thiếu ruột, người không thể sống.
Lúc ấy, chú chó trung thành của Cuội bèn xin hiến ruột mình để cứu vợ chủ. Cuội ngần ngại, nhưng đành thử. Kỳ diệu thay, vợ chàng sống lại. Cuội thương xót chó, bèn nặn ruột bằng đất thay vào cho nó, và chó cũng sống.
Từ khi được ghép ruột chó, tính vợ Cuội trở nên hay quên. Cuội luôn nhắc: “Em nhớ nhé, cây quý trong vườn tuyệt đối không được tưới nước bẩn. Nếu không, cây sẽ bay mất!”
Nhưng một hôm, Cuội đi rừng chưa về, vợ quên lời chồng dặn, tiểu tiện ngay gốc cây. Đất trời bỗng rung chuyển, cây đa bật gốc, từ từ bay lên trời.
Cuội vừa về đến, thấy cây bay, liền quăng gánh củi, chạy tới níu lấy rễ cây, quyết không buông. Nhưng cây cứ thế cuốn cả Cuội lên tận cung trăng, không ai níu lại được.
Từ đó, người đời kể rằng, vào những đêm trăng sáng, nhìn lên trời có thể thấy bóng dáng chú Cuội ngồi bên gốc cây đa, nét mặt đăm chiêu như còn mãi ngóng chờ ngày trở về hạ giới.

Trí khôn của ta đây

Trí khôn của ta đây
Trí khôn của ta đây
Ngày xửa ngày xưa, trong khu rừng nọ có một con Hổ to khỏe, oai phong, là chúa tể muôn loài. Một hôm, Hổ thấy Trâu đang kéo cày cho một người nông dân. Hổ lấy làm lạ, nghĩ thầm:
– Trâu khỏe thế kia, sao lại chịu để con người sai khiến? Ta phải hỏi cho ra lẽ.
Hổ tiến tới hỏi Trâu:
– Này Trâu, ngươi to khỏe thế, sừng nhọn thế, sao lại để con người nhỏ bé điều khiển?
Trâu thở dài:
– Người không có sức như ta, nhưng có trí khôn, nên ta phải nghe lời.
Hổ ngạc nhiên, quay sang hỏi người nông dân:
– Này, ngươi đâu, ngươi cho ta xem trí khôn của ngươi được không?
Người nông dân gãi đầu nghĩ kế. Ông ta nói:
– Được thôi! Nhưng trí khôn ta để ở nhà. Nếu ngươi muốn xem thì ta về lấy, nhưng sợ lúc ta đi, ngươi ăn mất Trâu của ta.
Hổ bảo:
– Ta thề không ăn đâu. Ngươi cứ buộc Trâu lại là được.
Người nông dân lại nói:
– Ta cũng chẳng tin lời Hổ. Hay là ta buộc Hổ vào gốc cây, rồi đi lấy trí khôn về. Khi nào ta quay lại, sẽ tháo dây và chỉ cho ngươi xem.
Hổ thấy cũng phải, bèn để người nông dân trói mình chặt vào một thân cây to bằng dây thừng chắc nịch.
Khi Hổ bị buộc chặt rồi, người nông dân vác luôn bó củi khô, châm lửa đốt rụi lông Hổ, vừa đốt vừa nói:
– Đây! Trí khôn của ta đây!
Hổ đau đớn gào thét, lông cháy xém, vội giãy giụa đứt dây chạy vào rừng. Từ đó về sau, Hổ mất hết vẻ oai phong, da đầy vằn vện – là dấu tích của trí khôn của con người để lại.

Câu chuyện bó đũa

Câu chuyện bó đũa
Câu chuyện bó đũa
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng quê thanh bình, có một gia đình nọ sống hiền lành, đông vui. Ông lão chủ nhà có hai người con – một trai, một gái. Từ thuở nhỏ, anh em thân thiết như hình với bóng, đi đâu cũng có nhau. Nhưng rồi thời gian trôi, họ khôn lớn, hai anh em lập gia đình, mỗi người một ngả, tình cảm dần xa cách. Chuyện nhỏ hóa to, chuyện to thành lời qua tiếng lại. Họ chẳng còn nói với nhau bằng lời yêu thương như thuở trước.
Người cha già nhìn con cái bất hòa mà lòng buồn rười rượi. Một hôm, ông gọi cả con trai, con dâu lại, đặt lên bàn một bó đũa tre và một túi tiền lấp lánh. Ông từ tốn bảo:
– Ai trong các con bẻ gãy được bó đũa này, cha sẽ tặng luôn túi tiền làm phần thưởng.
Bốn người con thay phiên nhau thử sức. Ai nấy đều đỏ mặt, gân tay nổi lên, bó đũa vẫn trơ trơ như đá. Không ai bẻ nổi. Ông lão mỉm cười, thong thả tháo bó đũa ra rồi nhẹ nhàng bẻ từng chiếc một, rắc… rắc…, chẳng khó khăn gì.
Các con nhìn nhau ngạc nhiên, rồi cùng thốt lên:
– Cha ơi, bẻ từng chiếc đũa thì dễ quá!
Ông lão gật đầu, giọng chậm rãi nhưng ấm áp:
– Các con à, một chiếc đũa lẻ loi thì ai cũng có thể bẻ gãy. Nhưng cả bó đũa kết lại thì mạnh mẽ vô cùng. Con người cũng thế. Nếu các con đoàn kết, yêu thương nhau thì không điều gì lay chuyển được. Còn nếu chia rẽ, thì chỉ một cơn gió nhẹ cũng khiến nhà tan cửa nát.
Từ đó, anh em trong nhà sống chan hòa, nhường nhịn nhau như xưa. Câu chuyện bó đũa của ông cha trở thành bài học mà cả làng đều nhắc mãi.

Cậu bé thông minh

Cậu bé thông minh
Cậu bé thông minh
Ngày xưa, có một ông vua muốn tìm người tài giỏi giúp nước, bèn sai một viên quan đi khắp nơi dò la. Viên quan đi khắp vùng, ai ông cũng đố đủ thứ câu hóc búa, nhưng chưa gặp được ai thật đặc biệt. Một hôm, ông đi ngang cánh đồng, thấy hai cha con đang làm ruộng: cha thì đánh trâu cày, con trai nhỏ thì đập đất. Ông bèn ghìm ngựa lại, hỏi lớn:
– Này lão kia, trâu của lão một ngày cày được mấy đường?
Người cha chưa kịp trả lời thì cậu bé chừng bảy, tám tuổi đã nhanh nhảu:
– Thưa ông, nếu ông cho biết ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, cháu sẽ nói trâu của cha cháu cày được mấy đường!
Viên quan sửng sốt, nghĩ thầm: "Đây chắc chắn là nhân tài rồi!", bèn hỏi quê quán hai cha con rồi phi ngựa về tâu vua.
Vua nghe chuyện, liền ra lệnh thử tài: ban cho làng ba con trâu đực và ba thúng gạo nếp, bắt năm sau phải nộp lại chín con trâu con, nếu không sẽ bị phạt. Cả làng hoang mang, họp mãi không nghĩ ra cách, chỉ có cậu bé nói:
– Đây là lộc vua ban, làng cứ giết hai trâu và đồ hai thúng gạo nếp làm cỗ ăn mừng, còn một trâu và một thúng gạo, cha con con sẽ lấy làm kinh phí trẩy kinh lo liệu việc đó.
Cha bé lo lắng:
– Ăn hết rồi lấy gì nộp cho vua?
Cậu bé quả quyết:
– Cha cứ tin con!
Lên kinh, cậu bé giả khóc thảm thiết ngoài cổng cung. Vua cho gọi vào, hỏi:
– Sao con khóc?
– Tâu đức vua, mẹ con mất sớm, mà cha không chịu đẻ em cho con chơi…
Vua bật cười:
– Làm gì có chuyện đàn ông đẻ được!
– Thế sao lại bắt làng con nuôi trâu đực đẻ ra chín trâu con?
Vua bật cười ha hả, nhưng vẫn chưa chịu thua, hôm sau lại sai sứ mang con chim sẻ đến, bắt làm ba mâm cỗ. Cậu bé đưa ra một cây kim may, bảo:
– Xin mang về rèn cho cháu con dao để xẻ thịt chim!
Vua lúc này mới thực sự tâm phục, thưởng lớn cho hai cha con.
Chẳng bao lâu, sứ giả nước láng giềng đưa sang một chiếc vỏ ốc, đố xâu chỉ qua ruột ốc. Các quan nghĩ mãi không ra, lại mời cậu bé. Cậu chỉ hát:
"Tang tính tang, tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thì lấy giấy mà bưng
Bên thì bôi mỡ, kiến mừng kiến sang…"
Vua làm theo, quả nhiên xâu được chỉ. Từ đó, cậu bé được phong Trạng Nguyên, cho ở lại bên vua để giúp việc triều đình.

Ba lưỡi rìu

Ba lưỡi rìu
Ba lưỡi rìu
Ngày xưa, có một chàng tiều phu hiền lành, chất phác, ngày ngày lên rừng đốn củi kiếm sống. Anh chỉ có một chiếc rìu sắt cũ kỹ nhưng luôn trân trọng vì đó là công cụ duy nhất giúp anh mưu sinh. Một hôm, khi đang đốn củi bên bờ suối, chẳng may tay anh trượt, lưỡi rìu văng xuống nước sâu. Dù anh cố mò tìm, dòng nước lạnh và xiết khiến anh không thể làm gì được. Buồn bã, anh ngồi bệt xuống bờ suối, ôm mặt khóc vì mất rìu thì chẳng còn cách nào kiếm sống.
Bỗng từ mặt nước, một vị thần hiện ra. Đó là thần nước, ông hỏi:
– Vì sao con khóc?
– Thưa thần, con làm nghề tiều phu, vừa đánh rơi chiếc rìu sắt duy nhất của mình xuống suối. Không có nó, con chẳng biết làm gì để sống.
Cảm động trước lòng chân thật của chàng trai, thần nước lặn xuống suối, một lúc sau mang lên một lưỡi rìu bằng vàng sáng loáng. Thần hỏi:
– Đây có phải là rìu của con không?
Chàng trai lắc đầu ngay:
– Không, thưa thần. Rìu con chỉ là rìu sắt, cũ và đen xỉn. Chiếc này quý giá lắm, không phải của con đâu ạ.
Thần gật đầu, lại lặn xuống suối. Lần này, ông mang lên một lưỡi rìu bằng bạc sáng bóng.
– Vậy còn chiếc này?
Chàng trai vẫn lắc đầu:
– Thưa thần, rìu của con không đẹp như thế, nó chỉ là chiếc rìu sắt bình thường thôi.
Thần nước mỉm cười, lần thứ ba lặn xuống, và mang lên chiếc rìu sắt cũ kỹ đúng của chàng trai.
– Đây thì sao?
Chàng trai mừng rỡ:
– Đúng rồi, đây chính là chiếc rìu của con! Con cảm ơn thần nhiều lắm!
Thần nước xúc động trước lòng trung thực của chàng trai, liền nói:
– Con là người thật thà, không tham lam của cải không phải của mình. Vì vậy, ta tặng luôn cho con cả ba lưỡi rìu: vàng, bạc và sắt. Hãy sống tốt và tiếp tục giữ lòng thành như hôm nay.
Chàng tiều phu cảm ơn rối rít, ôm ba lưỡi rìu trở về. Từ đó, anh không còn phải sống khổ cực, nhưng vẫn tiếp tục làm việc chăm chỉ và sống tử tế với mọi người.
Câu chuyện về ba lưỡi rìu nhanh chóng lan truyền khắp vùng. Một tên tiều phu khác nghe được, vốn lười biếng và tham lam, liền nảy ra ý định bắt chước. Hắn cố tình ném chiếc rìu sắt của mình xuống suối rồi ngồi khóc thật to.
Thần nước lại hiện lên, hỏi sự tình. Hắn kể dối rằng vừa làm rơi rìu. Thần nước lặn xuống, lần đầu tiên mang lên chiếc rìu vàng. Hắn mừng rỡ la lên:
– Đúng rồi! Đó là rìu của con!
Thần nước nghiêm mặt lại:
– Ngươi không trung thực. Chiếc rìu này không phải của ngươi.
Rồi thần biến mất, mang theo cả chiếc rìu vàng lẫn rìu sắt của hắn. Tên tiều phu tham lam vừa mất rìu, vừa xấu hổ, tay trắng trở về.

3Cách kể chuyện giúp bé hứng thú và dễ ngủ

Bên cạnh việc chọn truyện, cách kể chuyện của cha mẹ đóng vai trò quyết định đến chất lượng giấc ngủ và sự hứng thú của bé:
Dùng giọng kể nhẹ nhàng, thay đổi âm điệu theo nhân vật: Giọng kể trầm ấm, du dương sẽ dễ dàng đưa bé vào giấc ngủ. Hãy linh hoạt thay đổi tông giọng (cao/thấp, nhanh/chậm) để hóa thân vào các nhân vật, giúp câu chuyện trở nên sống động, hấp dẫn hơn.
Tắt TV, tạo không gian yên tĩnh, ánh sáng ấm áp: Tạo ra một không gian kể chuyện chuyên biệt. Tắt hết các thiết bị gây xao nhãng, chỉ giữ lại ánh sáng vàng dịu nhẹ từ đèn ngủ để báo hiệu cho bé rằng đã đến giờ nghỉ ngơi.
Cách kể chuyện giúp bé hứng thú và dễ ngủ
Cách kể chuyện giúp bé hứng thú và dễ ngủ
Khuyến khích bé đoán kết thúc hoặc kể lại câu chuyện theo trí nhớ: Sau khi kể, cha mẹ nên đặt các câu hỏi như "Nếu là con, con sẽ làm gì?" hoặc "Con nhớ được chi tiết nào quan trọng?". Điều này kích thích tư duy phản biện và khả năng ghi nhớ của trẻ.
Có thể kết hợp nghe audio truyện kể thiếu nhi hoặc xem hình minh họa: Thỉnh thoảng, bạn có thể thay đổi bằng cách cho bé nghe audio để bé làm quen với nhiều giọng kể khác nhau, hoặc dùng sách có hình minh họa đẹp để tăng tính trực quan, sinh động.

4Gợi ý nguồn truyện và kênh kể chuyện hữu ích

Gợi ý nguồn truyện và kênh kể chuyện hữu ích
Gợi ý nguồn truyện và kênh kể chuyện hữu ích
Nếu muốn tìm kiếm thêm nguồn truyện mới mẻ, cha mẹ có thể tham khảo các kênh sau:
  • YouTube:
    • Kênh “Truyện kể cho bé ngủ ngon”: Tổng hợp các câu chuyện nhẹ nhàng, giọng đọc ấm áp, giúp bé thư giãn.
    • Kênh “Cổ tích Việt Nam”: Kho tàng phong phú các truyện cổ dân gian, lịch sử Việt Nam.
  • Podcast:
    • Spotify, Google Podcast chuyên mục “Truyện thiếu nhi” hoặc “Truyện ngủ ngon”: Tuyển tập các audio chất lượng cao, dễ dàng nghe trên điện thoại.
  • Website:
    • TruyenCoTich.vn: Cung cấp kho truyện khổng lồ, được phân loại rõ ràng theo độ tuổi và thể loại.
Hãy biến khoảng thời gian truyện kể trước giờ đi ngủ thành một kho báu ký ức ngọt ngào cho con trẻ. Những câu chuyện sẽ là hành trang quý giá, nuôi dưỡng tâm hồn bé thơ và thắt chặt thêm tình yêu thương gia đình.
Chọn mua trái cây tươi ngon, giá tốt tại Bách Hóa XANH nhé:
Quỳnh Nhi
. một tháng trước
Bài viết này có hữu ích với bạn không
Hữu ích
Không hữu ích
Unilever Mã Giảm 30K